Các quy định về thừa kế trong Bộ Luật dân sự năm 2015 .
VANTHONGLAW - Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; Quyền sở hữu tư nhân và
quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Như vậy quyền để lại thừa kế và quyền thừa
kế là những quyền cơ bản của công dân được
pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Bài liên quan
Tuy nhiên, trên thực tế, do việc
coi trọng những phong tục tập quán, tình cảm gia đình đã khiến cho không ít người
bỏ qua việc đảm bảo thi hành quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế. Bên cạnh đó
cũng có những trường hợp người để lại di sản thừa kế đã lập di chúc nhưng do
thiếu hiểu biết, bản di chúc đó không phù hợp, khiến những người được hưởng di
sản thừa kế phải giải quyết tranh chấp bằng pháp luật. Do vậy việc hiểu được
các chế định về thừa kế là cần thiết và có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thừa kế. So với Bộ Luật dân sự (BLDS) 2005 thì BLDS 2015 quy định các chế định
về thừa kế cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
chỉ trình bày các quy định về thừa kế năm 2015, cụ thể như sau:
+ Điều 609 BLDS 2015: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt
tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có
quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Như vậy, BLDS 2015 đã điều chỉnh
và bổ sung thêm quyền của người thừa kế "không là cá nhân", tức người
được hưởng thừa kế là pháp nhân hay tổ chức. Theo quy định này, cá nhân là người
được nhận thừa kế có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật,
còn người thừa kế là pháp nhân hay tổ chức chỉ có thể được hưởng thừa kế theo
di chúc. Và tại Điều 610 BLDS 2015 cũng đã quy định: "Mọi cá nhân đều bình
đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo
di chúc hoặc theo pháp luật".
+ Quy định về người thừa kế, tại Điều 613 BLDS 2015 quy định như
sau : "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa
kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá
nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế".
Và Điều 651 quy định người thừa kế theo pháp luật, theo đó hàng thừa
kế được quy định theo thứ tự sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội,
cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người
chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế chỉ được
hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền
hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
Tuy nhiên theo quy định tại Điều 621 của BLDS 2015 thì
trong một số trường hợp kể cả thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật, thì những
người sau đây không có quyền được hưởng thừa kế: Bị kết án về hành vi cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người
để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; người vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; bị kết án về hành vi
cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ phần di
sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng; người có hành vi lừa dối, cưỡng ép
hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di
chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ di sản trái với ý muốn của
người để lại di sản. Tuy nhiên, những người có hành vi này vẫn được hưởng di sản
nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di
sản.
+ Quy định về thời hiệu thừa kế, tại Điều 623 củaBLDS 2015:
"1. Thời hiệu để người thừa
kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản,
kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản
thì di sản được giải quyết như sau: a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang
chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này; b) Di sản thuộc về Nhà nước,
nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là
10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm
mở thừa kế".
Quy định trên nhằm tránh trường hợp
bất cập trước đây là có nhiều tài sản thừa kế đang bị tranh chấp nhưng do hết
thời hiệu khởi kiện nên người thừa kế tài sản không thể đăng ký quyền sở hữu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như người thừa kế không nắm rõ các
quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế hoặc do sự ràng buộc
về đạo lý, truyền thống mà con cái không dám yêu cầu chia thừa kế khi cha mẹ
qua đời trong thời gian ngắn.
+ Quy định về thừa kế theo di chúc, tại Điều 625 BLDS 2015 quy định về
người lập di chúc như sau:
'1. Người thành niên có đủ điều
kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng
ý về việc lập di chúc".
Theo đó điều kiện để di chúc hợp
pháp, tại Điều 630 BLDS 2015 đã quy định:
"1. Di chúc hợp pháp phải có đủ
các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái
quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về
thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có
công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được
quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp
pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì
di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận
chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng".
+ Quy định về di sản thừa kế, tại Điều 612 BLDS 2015 đã quy định di sản
bao gồm:
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Ngoài ra di sản được quy định bao
gồm cả các quyền tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền
thừa kế giá trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Bên cạnh đó, di sản thừa
kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người có tài
sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản, thì phần nghĩa vụ này sẽ được thanh
toán bằng tài sản của người chết. Phần còn lại sẽ được xác định là di sản thừa
kế và được chia theo di chúc hay quy định của pháp luật. Trong trường hợp di sản
chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di
sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người thừa kế.
Trong trường hợp Nhà nước, cơ
quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
+ Quy định về di chúc, tại Điều 624 BLDS 2015 quy định: Di chúc là
sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết. Hình thức của di chúc phải được lập thành văn bản. Nếu không thể lập
được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng chỉ được công
nhận là hợp pháp. Nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước
mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi
chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng
mà người để lại di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy
bỏ.
Đối với trường hợp di chúc của
người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được
cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc
của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công
chứng hoặc chứng thực.
Tuy nhiên, một di chúc dù hình thức
bằng văn bản hay bằng miệng thì chỉ được coi là hợp pháp khi đáp ứng đầy đủ các
điều kiện sau: Người lập di chúc đã thành niên, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa đối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Nội dung di chúc không phải
trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp
luật. Nếu việc lập di chúc có người làm chứng thì người làm chứng không phải là
những người sau: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập
di chúc. Người có quyền nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. Người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi.
+ Di chúc chung của vợ chồng, BLDS 2015 không quy định di chúc
chung của vợ, chồng do chế định này trong BLDS 2005 còn có nhiều bất cập trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ
di chúc chung hay khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, những người thừa kế hợp
pháp không thể đề nghị phân chia di sản thừa kế hoặc chia thừa kế bắt buộc...
Như vậy, thừa kế là việc chuyển
giao tài sản của một người đã chết cho những người khác theo quy định của pháp
luật. Việc chuyển giao này có thể thực hiện theo di chúc trong trường hợp không
có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh được hiệu lực
pháp luật thì việc chuyển giao tài sản sẽ thực hiện theo pháp luật. Trong trường
hợp có tranh chấp về tài sản thừa kế thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Những người tham gia vào quan hệ pháp luật
này là những bên có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau hoặc quan hệ hôn nhân
hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Vì vậy, để nghiên cứu nhằm áp dụng giải quyết các vụ
tranh chấp về quyền thừa kế cần nắm vững các quy định của pháp luật về thừa kế
và phải luôn tôn trọng, đề cao tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình, đó là
truyền thống văn hoá tốt đẹp của người Việt Nam.
Luật gia Trà Đình Phúc