Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng  xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Công ty luật, luật sư uy tín, sách luật, văn phòng luật sư tphcm, hà nội, đà nẵng, uy tín, tranh chấp, di chúc thừa kế, nhà đất, thành lập doanh nghiệp, bảo vệ tại tòa án, lý lịch tư pháp, sách luật hay, thư viện trường học, ly hôn, phần mềm quản lý công ty luật, bình luận án lệ, COVID-19, luận văn, luận án

VANTHONGLAW -  Tự do ngôn luận, tự do báo chí là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là    quyền con người cơ bản, mà còn là nhu cầu thiết yếu trong tiến trình tồn tại và phát  triển của mỗi dân tộc, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.  Tự do ngôn luận là nền tảng mà không có nó, nhiều quyền con người khác cũng  không thực hiện được. Nó là một quyền cơ bản của con người không phân biệt về văn  hóa, chính trị, tôn giáo, dân tộc hay các yếu tốc khác. 

Bài liên quan

Quyền được giữ quan điểm và tự  do ngôn luận là cơ sở để thực hiện đầy đủ nhiều quyền con người khác, ví dụ để hưởng  quyền tự do hội họp, lập hội, quyền bầu cử, ứng cử thì quyền tự do ngôn luận là cơ sở  để con người thực hiện đầy đủ các quyền này.   Cũng như các quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí có  mối quan hệ chặt chẽ với các quyền khác, đó là quyền bất khả xâm phạm về đời tư và  nhân thân; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tham gia quản lý nhà  nước và xã hội; quyền của người thiểu số  đều có nội dung, yêu cầu  được bảo  đảm  quyền giữ quan điểm riêng và quyền tự do ngôn luận. 

Hơn nữa, các quyền con người  khác lại là cơ sở, thậm chí là điều kiện quan trọng và thiết yếu để quyền tự do ngôn  luận được thực hiện, ví dụ quyền sống; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự  do và an ninh cá nhân; quyền tiếp cận thông tin.   

Việt Nam là thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị  năm 1982. Việc nội luật hoá các quy định của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc  gia được Việt Nam thực hiện theo những lộ trình nhất định. Quyền tự do ngôn luận là  một trong những quyền quan trọng của con người. Bởi vậy, quyền này được bảo vệ  không chỉ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia là Hiến pháp mà  còn được chi tiết hóa trong các văn bản luật của Việt Nam. 

Ngay từ bản Hiến pháp đầu  tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, quyền tự do ngôn luận đã được  đề cập tại Điều 10 như sau: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận,  Tự do  xuất bản, Tự do tổ chức và hội họp, Tự do tín ngưỡng, Tự do cư trú, đi lại trong nước  và ra nước ngoài”.   Tự do ngôn luận theo cách truyền thống được thể hiện qua báo chí và những  hình thức biểu đạt mang tính chất cá nhân khác. 

Tuy nhiên, cùng với thời gian, các  mạng xã hội xuất hiện, trở thành một công cụ hữu dụng để mọi người thể hiện quyền  tự do ngôn luận. Mặc dù vậy, đi kèm với tính hữu dụng đó là những vấn đề pháp lý, xã  hội đặt ra về giới hạn và sự kiểm soát tự do ngôn luận trên mạng xã hội. Đây là một  vấn đề không chỉ đặt ra ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Hiện tại, vấn  đề này vẫn còn nhiều khía cạnh gây tranh cãi, cần được nghiên cứu đề ra các giải pháp.  

Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm mục đích vì con  người, bảo đảm các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận,  hiện là yêu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự nghiệp xây dựng, hoàn  thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực thi Hiến pháp năm 2013. 

Trong  bối cảnh đó, học viên quyết định chọn vấn đề “Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng  xã hội ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quyền con  người, với mong muốn góp phần giải quyết những tồn tại, vướng mắc, thúc đẩy sự bảo  đảm quyền này ở nước ta trong thời gian tới.

Xem toàn văn tại đây hoặc liên hệ Facebook VanThongLaw

Luật Vạn Thông st

Powered by Blogger.