04 Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023
04 Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023
VANTHONGLAW - Chỉ còn vài ngày nữa là đến Tết Dương lịch Quý Mão 2023, đây cũng là thời điểm mà một số văn bản luật sẽ có hiệu lực pháp luật. Sau đây, mời quý độc giả cùng điểm qua 04 văn bản luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2023.
Bài liên quan:
1. Luật Sở hữu trí tuệ 2022 sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
Luật Sở hữu trí tuệ 2022 sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được Quốc hội khóa XV thông qua vào kỳ họp thứ
3, ngày 16/6/2022 và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023 (trừ quy định về
bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu âm thanh đã có hiệu lực thi hành từ ngày
14/01/2022 và quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm dùng cho nông hóa phẩm sẽ
có hiệu lực thi hành từ ngày 14/01/2024).
Theo Cổng thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ, Luật sửa đổi, bổ sung 2022 tập
trung vào 07 nhóm chính sách lớn bao gồm:
Chính
sách 1: Đảm bảo quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn,
chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao Quyền
tác giả (QTG), Quyền liên quan đến quyền tác giả (QLQ), cụ thể:
- Các quy định liên quan đến xác định chủ thể nắm giữ quyền tài sản (chủ
sở hữu, tác giả, người biểu diễn) được quy định rõ ràng và cụ thể hơn, giúp cho
quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng trong các hợp đồng
chuyển nhượng, chuyển giao QTG, QLQ được thuận lợi hơn.
- Điểm nổi bật của Luật là quy định cho phép chuyển giao một số
quyền nhân thân theo thỏa thuận (thỏa thuận đặt tên, sửa đổi tác phẩm) phù hợp
với đặc thù của lĩnh vực quyền tác giả nhằm giải quyết những vướng mắc tồn tại
trong thực tiễn thời gian qua như trường hợp có nhu cầu thay đổi tên tác phẩm,
sửa đổi, nâng cấp chương trình máy tính v.v.
Chính
sách 2: Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng được tạo ra từ nhiệm vụ KHCN sử dụng
ngân sách Nhà nước:
Luật quy định trao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí, giống cây trồng là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng
ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì một cách tự động và không bồi hoàn, đồng
thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác
giả phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng khóa 11.
Quy định này không chỉ khắc phục các bất cập hiện nay về việc đăng ký và
khai thác các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ do nhà nước đầu tư mà còn là cú
hích để khuyến khích các chủ thể nghiên cứu nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ
động đăng ký, khai thác các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,
giống cây trồng được tạo ra; thúc đẩy quan hệ hợp tác với doanh nghiệp để chuyển
giao công nghệ, thương mại hóa và thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư để phát triển,
nghiên cứu sản phẩm, qua đó thu về nhiều lợi ích kinh tế cũng như đạt được các
mục tiêu về an sinh xã hội.
Chính
sách 3: Tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký QTG, QLQ, thủ tục
xác lập quyền SHCN:
Theo đó, dù là quyền được xác lập tự động mà không qua đăng ký (trong
lĩnh vực QTG, QLQ) hay phải đăng ký (lĩnh vực SHCN), thì các quy định liên quan
đến thủ tục, thời hạn, thành phần hồ sơ v.v. tiếp tục được hoàn thiện theo hướng
gọn nhẹ, nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch để khuyến khích, gia tăng hoạt động
đăng ký, xác lập quyền SHTT nhằm tạo cơ sở, bằng chứng vững chắc trong việc xác
định chủ thể quyền và đối tượng được bảo hộ, làm tiền đề cho việc khai thác quyền
cũng như thực thi quyền sau này.
Một số sửa đổi cụ thể bao gồm: tạo cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân thực
hiện đăng ký trực tuyến QTG, QLQ; phân luồng ý kiến người thứ ba để đẩy nhanh
quá trình thẩm định đơn; đơn giản hóa bản mô tả kiểu dáng công nghiệp; giới hạn
việc kiểm soát an ninh đối với sáng chế; cho phép trì hoãn công bố đơn kiểu
dáng công nghiệp; bổ sung một số quy định đặc thù về thủ tục giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực SHCN.
Chính
sách 4: Đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền SHTT, cụ
thể:
Các quy định liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHTT được sửa đổi,
hoàn thiện để bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng giữa một bên là quyền
lợi của chủ thể quyền và một bên là quyền sử dụng, quyền tiếp cận tri thức,
công nghệ của xã hội. Cụ thể:
- Bổ sung một số trường hợp ngoại lệ không xâm phạm QTG, QLQ, các giới hạn
QTG, QLQ nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa chủ thể quyền tác giả với tổ chức,
cá nhân khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ tiếp cận tác phẩm, đảm bảo
thực thi các cam kết quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
- Bổ sung một số quy định nhằm kiểm soát sáng chế có sử dụng nguồn gen
và tri thức truyền thống về nguồn gen; bổ sung một số căn cứ chấm dứt hiệu lực,
huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ (sáng chế, nhãn hiệu); xử lý xung đột giữa nhãn
hiệu với tên giống cây trồng, với đối tượng QTG, QLQ; sửa đổi các quy định về
chủ thể đối với chỉ dẫn địa lý; làm rõ điều kiện bị coi là cạnh tranh không
lành mạnh giữa tên miền với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có trước.
Chính
sách 5: Tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về SHTT
Các nội dung sửa đổi nhằm đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ cho hệ thống SHTT
(bao gồm hoạt động đại diện, giám định), cụ thể là sửa đổi, bổ sung một số quy
định theo hướng mở hơn nhằm tạo tính cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ đại diện
(phân chia đại diện theo lĩnh vực; nới lỏng điều kiện được cấp Chứng chỉ hành
nghề đại diện tùy theo lĩnh vực); sửa đổi quy định về giám định theo hướng xác
định rõ phạm vi giữa giám định SHTT với giám định tư pháp về SHTT; làm rõ ý
nghĩa mang tính chứng cứ của kết luận giám định SHTT);
Chính
sách 6: Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền SHTT
Các quy định liên quan đến thực thi quyền được sửa đổi nhằm bảo đảm cơ chế
bảo vệ quyền SHTT được hiệu quả, hợp lý và khả thi hơn, trong đó đáng chú ý là
quy định bổ sung thẩm quyền chủ động áp dụng biện pháp kiểm soát tại biên giới
nếu trong quá trình kiểm tra, giám sát và kiểm soát cơ quan hải quan phát hiện
căn cứ rõ ràng để nghi ngờ hàng hóa xuất, nhập khẩu là hàng giả mạo SHTT.
Chính
sách 7: Bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam
về bảo hộ SHTT trong quá trình hội nhập, cụ thể:
- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến biện pháp công nghệ bảo
vệ quyền và thông tin quản lý quyền để đảm bảo thực thi trong môi trường số; một
số quy định về ngoại lệ QTG, QLQ;
- Sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh; chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu; cơ chế bảo đảm
thông tin cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trong thủ tục cấp phép lưu hành
thị trường đối với dược phẩm; nghĩa vụ bảo hộ dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp
phép nông hóa phẩm; cơ chế đền bù cho chủ sở hữu sáng chế vì sự chậm trễ trong
việc cấp phép lưu hành dược phẩm; giả định về QTG, QLQ; quyền, trách nhiệm của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trên môi trường mạng Internet và mạng
viễn thông; nghĩa vụ chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ là hàng giả mạo SHTT.
2. Luật
Kinh doanh bảo hiểm 2022
Theo đó, ngày 16/6/2022, Quốc hội đã ban hành Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2023, trừ một số trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 156.
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 có hiệu lực sẽ thay thế Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010, năm 2019).
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 ra đời được xem là một sự cấp thiết trong
thời buổi hiện nay, khi mà ngành kinh doanh bảo hiểm đối diện với nhiều vấn đề
pháp lý không được quy định rõ ràng, quyền lợi của người mua bảo hiểm không được
đảm bảo.
Theo thông tin của Cổng thông tin điện tử Chính Phủ về xây dựng chính sách, pháp luật, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 sẽ có các điểm mới theo hướng
sau:
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm chủ động phát triển sản phẩm bằng
các thay đổi phương thức quản lý tài chính, quản lý doanh nghiệp cho phép xác định
vốn và quản lý doanh nghiệp theo rủi ro đặc thù của từng doanh nghiệp;
- Nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn tối đa 100% vốn điều lệ;
- Cắt giảm thủ tục hành chính; tăng tính bảo vệ quyền và lợi ích của bên
mua bảo hiểm. Cụ thể sửa đổi theo hướng bãi bỏ một số bảo hiểm bắt buộc như bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không với hành khác; bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Ngoài ra để cắt giảm thủ tục
hành chính, Luật Kinh doanh bảo hiểm còn bãi bỏ quy định phải chấp thuận đối với
đóng, mở, thay đổi địa điểm đặt chi nhánh, văn phòng đại diện và thay bằng hình
thức thông báo với Bộ Tài chính trước khi có thay đổi.
- Tạo điều kiện phát triển bảo hiểm vi mô: Luật Kinh doanh bảo hiểm đưa
ra định nghĩa về bảo hiểm vi mô, các điểm đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm vi
mô, theo đó, sản phẩm bảo hiểm vi mô phải được thiết kế đơn giản, hướng tới các
nhu cầu bảo hiểm cơ bản, phí bảo hiểm thấp nhằm phù hợp với với nhu cầu và khả
năng chi trả của mọi người dân đặc biệt là dân cư nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
người có thu nhập thấp, người yếu thế. Luật Kinh doanh bảo hiểm cho phép 02 tổ
chức cung cấp bảo hiểm vi mô là “doanh nghiệp bảo hiểm” và “tổ chức tương hỗ
cung cấp bảo hiểm vi mô”. Đây là hai tổ chức phổ biến nhất cung cấp bảo hiểm vi
mô trên thế giới.
3. Luật
Điện ảnh năm 2022
Theo phát biểu của Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông,
Luật Điện ảnh 2022 thay thế Luật điện ảnh năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2018) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023 với 10 điểm mới
cơ bản phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Thứ nhất, về khái niệm, Luật mới đã kế thừa, sửa đổi, bổ sung các khái niệm thuật
ngữ quy định tại Luật Điện ảnh năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2018) và bổ sung thuật ngữ “Công nghiệp điện ảnh”,
“Phân loại phim”, “Phim Việt Nam”, “Trường quay” và “Địa điểm chiếu phim công cộng”.
Trong đó, việc sửa đổi, bổ sung khái niệm “Phim” đóng vai trò quan trọng, qua
đó xác định rõ những loại sản phẩm nào trong lĩnh vực nghe nhìn được Luật Điện ảnh
điều chỉnh.
Thứ hai, về chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh, công nghiệp điện ảnh
(Điều 5): Luật Điện ảnh năm 2022 quy định việc đầu tư và hỗ trợ vào một khoản
(khoản 2 Điều 5) nhằm tạo sự linh hoạt trong chính sách của Nhà nước đối với hoạt
động điện ảnh; Luật đã thể hiện rõ hơn cơ chế, biện pháp của Nhà nước huy động
mọi nguồn lực đầu tư, phát triển điện ảnh, công nghiệp điện ảnh; sắp xếp lại
theo nhóm chính sách để bảo đảm tính logic, phù hợp với quy định của pháp luật
về đầu tư, ngân sách Nhà nước đồng thời khuyến khích tăng cường, xã hội hóa hoạt
động điện ảnh.
Thứ ba, về những nội dung và hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động điện ảnh (Điều 9), Luật quy định chi tiết, cụ thể hơn những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động điện ảnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuân thủ Luật.
Thứ tư, về sản xuất phim (Chương II), những điểm mới quan trọng được quy định
tại Luật bao gồm: Hoạt động cung cấp dịch vụ quay phim sử dụng bối cảnh tại Việt
Nam (Điều 13), Luật quy định hồ sơ xin cấp phép chỉ yêu cầu kịch bản tóm tắt phim
và kịch bản chi tiết nội dung quay tại Việt Nam thay vì kịch bản phim đầy đủ
theo quy định tại Luật Điện ảnh năm 2006.
Bên cạnh đó, về sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước (Điều 14) được
thực hiện dưới ba hình thức giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu khác với Luật Điện ảnh năm 2006 chỉ quy định hình thức đấu thầu. Luật cũng mở rộng đối tượng
chủ đầu tư sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước là các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
- nghề nghiệp ở trung ương và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
Thứ năm, về chế độ ưu đãi đối với tổ chức nước ngoài sử dụng dịch vụ sản xuất
phim Việt Nam (Điều 41), Thứ trưởng Tạ Quang Đông nhấn mạnh, đây là nội dung
hoàn toàn mới được quy định tại Luật nhằm góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp
của đội ngũ làm điện ảnh, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, thúc
đẩy phát triển điện ảnh, du lịch và các ngành dịch vụ liên quan. Kinh nghiệm một
số quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng áp dụng chính sách ưu đãi này để
tạo sức hấp dẫn đối với các tổ chức nước ngoài sử dụng dịch vụ sản xuất phim.
Thứ sáu, về phát hành phim (Chương III), Luật không quy định phát hành phim là
ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc đầu tư, kinh
doanh trong lĩnh vực phát hành phim.
Thứ bảy, về phổ biến phim (Chương IV), Phổ biến trên không gian mạng (Điều 21),
Luật đã quy định rõ đối tượng chủ thể được phép phổ biến phim trên không gian mạng,
đồng thời quy định thêm về các yêu cầu, điều kiện cần bảo đảm khi phổ biến phim
trên không gian mạng như đáp ứng điều kiện thực hiện phân loại phim theo quy định
của Chính phủ, thông báo danh sách phim sẽ phổ biến và kết quả phân loại phim
cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước khi thực hiện phổ biến phim trên
không gian mạng. Thực hiện biện pháp kỹ thuật cần thiết và hướng dẫn để cha, mẹ
hoặc người giám hộ của trẻ em tự kiểm soát, quản lý, bảo đảm trẻ em xem phim được
phổ biến trên không gian mạng phù hợp với độ tuổi, cung cấp đầu mối, thông tin
liên hệ để tiến nhận, xử lý các yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước; phản ánh,
khiếu nại, tố cáo của người sử dụng dịch vụ.
Về cấp Giấy phép phân loại phim, thẩm định và phân loại phim (Điều 27 và
Điều 31), Luật quy định phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy phép
phân loại phim khi đáp ứng các quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nội
dung về phân cấp không hoàn toàn là nội dung mới trong luật, tuy nhiên quy định
mới mang tính khả thi đáp ứng điều kiện thực tế hơn so với quy định tại Luật Điện
ảnh năm 2006.
Về phân loại phim (Điều 32), phim Việt Nam chiếu tại rạp đã thực hiện
phân loại theo độ tuổi từ năm 2017. Tuy nhiên quy định này chỉ mới áp dụng đối
với phim chiếu tại rạp và chỉ được quy định tại Thông tư. Luật Điện ảnh năm 2022 quy định việc phân loại độ tuổi và hiển thị mức phân loại phim, cảnh báo nội
dung phim áp dụng chung cho các phim chiếu trên mọi hình thức phổ biến.
Thứ tám, về lưu chiểu, lưu trữ phim (Chương V), định dạng kỹ thuật của phim
thay đổi từ chất liệu phim nhựa sang phim phim kỹ thuật số nên Luật bổ sung một
số quy định mới nhằm phù hợp với công nghệ điện ảnh như thời hạn lưu chiểu đối
với phim nhập khẩu căn cứ theo thời hạn bản quyền phổ biến tại Việt Nam, phim
Việt Nam sản xuất bằng nguồn ngân sách nhà nước phải chuyển bản phim lưu chiểu
không khóa mã, kịch bản và tài liệu đi kèm cho cơ sở lưu trữ phim; Trả lại bản
phim lưu chiểu cho cơ sở nộp lưu chiểu khi hết thời hạn lưu chiểu. Chủ sở hữu
phim phải mở khóa mã phim để đối chiếu, kiểm tra khi có yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Thứ chín, về liên hoan phim, giải thưởng phim, cuộc thi phim, chương trình phim
và tuần phim tại Việt Nam (Điều 38), so với Luật điện ảnh năm 2006, Luật Điện ảnh năm 2022 đã mở rộng chủ thể được tổ chức liên hoan phim nhằm huy động nguồn lực
xã hội tham gia quảng bá, tôn vinh điện ảnh trong nước. Cụ thể các Bộ, ban,
ngành, các cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức chính trị
xã hội nghề nghiệp được tự tổ chức liên hoan phim, giải thưởng, cuộc thi phim,
chương trình phim và tuần phim tại Việt Nam. Cơ quan, tổ chức không thuộc đối
tượng nêu trên được phép tổ chức liên hoan phim, giải thưởng phim, cuộc thi
phim, chương trình phim và tuần phim tại Việt Nam.
Thứ mười, về Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh, so với Luật Điện ảnh năm 2006, Luật
đã bổ sung và làm rõ thêm mục đích của Quỹ (Điều 44) và nguyên tắc hoạt động của
Quỹ (Điều 45) nhằm nâng cao tính khả thi.
4. Luật
Cảnh sát cơ động 2022
Ngày 14/6/2022, Quốc hội đã thông qua Luật Cảnh sát cơ động 2022 tại kỳ họp thứ 3, khóa XV với 10 điểm mới nổi bật như sau:
1. Thêm hành vi bị nghiêm cấm đối với Cảnh sát cơ động;
2. Điểm mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát cơ động;
3. Quy định về sử dụng vũ khí, vật liệu nổ của Cảnh sát cơ động;
4. Quyền huy động người, phương tiện, thiết bị dân sự của Cảnh sát cơ động;
5. 04 đối tượng được phép điều động Cảnh sát cơ động;
6. Quy định về phối hợp thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát cơ động;
7. Đầu tư trang bị hiện đại, khoa học công nghệ cho lực lượng Cảnh sát
cơ động;
8. Điều chỉnh quy định về cấp nhà ở công vụ cho Cảnh sát cơ động;
9. Ai được tuyển chọn vào Cảnh sát cơ động?
10. Ưu tiên thực hiện chính sách về nhà ở xã hội cho cán bộ, chiến sĩ Cảnh
sát cơ động.
Theo Bộ Công an, việc ban hành Luật Cảnh sát cơ động không chỉ có ý
nghĩa trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát
cơ động mà còn có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước chuyển mình mới của lực lượng
này, góp phần tích cực hơn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội.
BẢO VỆ TỐT NHẤT QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA THÂN CHỦ